Thiết kế và phát triển Hughes_H-4_Hercules

Thân máy bay H-4, nhìn từ phía sau

Năm 1942, Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ đối diện với nhu cầu vận tải nhu yếu phẩm chiến tranh và nhân sự đến Anh Quốc. Đường biển của Đồng Minh trên Đại Tây Dương bị thiệt hại nặng vì những chiếc tàu ngầm loại U-boat của Đức. Nhu cầu được đặt ra là làm sao có một máy bay có thể vượt Đại Tây Dương cùng với một khối lượng lớn gồm các đồ quân nhu, phương tiện chiến tranh hay binh sĩ. Trong những điều kiện hạn chế có liên quan đến chiến tranh, mẫu máy bay thiết kế này không thể được chế tạo bằng kim loại.

Chiếc máy bay này là sáng kiến của Henry J. Kaiser, người điều hành chương trình "Liberty Ships" (tàu tự do). Ông hợp tác với nhà thiết kế máy bay Howard Hughes để chế tạo chiếc máy bay lớn nhất chưa từng có vào thời đó. Khi hoàn thành, nó có thể chở 750 binh sĩ trang bị đầy đủ hoặc một xe tăng M4 Sherman.[2] Thiết kế ban đầu mẫu "HK-1" phản ánh sự hợp tác của Hughes và Kaiser.[3]

Hợp đồng HK-1 phát triển máy bay vào năm 1942[4] lúc đầu nói đến việc chế tạo ba chiếc máy bay trong thời hạn 2 năm để sẵn sàng phục vụ cho chiến tranh.[5] 7 cấu hình máy bay khác nhau được xem xét, trong đó có các kiểu máy bay thân đơn và cả thân kép có 4, 6, 8 động cơ trên cánh.[6] Kiểu thiết kế cuối cùng được chọn là một kiểu to lớn chưa từng được chế tạo hoặc ngay cả chưa từng được nghĩ đến.[4][7] Để tiết kiệm kim loại, chiếc máy bay này được chế tạo phần lớn bằng gỗ[8]); vì vậy, biệt danh "Spruce Goose" (ngỗng vân sam) được giới truyền thông đặt ra để gọi nó. Những người chỉ trích chiếc máy bay này còn gọi nó là "Flying Lumberyard" (sân gỗ bay).

Trong khi Kaiser đưa ra khái niệm về "tàu hàng bay" (flying cargo ship), ông không có kiến thức về hàng không và chiều theo ý của Hughes và nhà thiết kế của ông là Glenn Odekirk.[7] Việc phát triển máy bay kéo dài đến nỗi làm cho Kaiser chán nản. Ông đổ lỗi cho sự chậm trễ một phần vì sự giới hạn áp đặt lên các vật liệu chiến lược như nhôm nhưng ông cũng đổ lỗi một phần là vì Hughes lúc nào cũng đòi hỏi sự "hoàn hảo".[9] Mặc dù việc chế tạo chiếc HK-1 đầu tiên mất có 16 tháng sau khi nhận được bản hợp đồng phát triển nhưng Kaiser rút khỏi dự án.[10]

So sánh khổ lớn giữa chiếc H-4 và DC-3

Hughes tiếp tục chương trình này một mình với mẫu thiết kế "H-4 Hercules" (ban đầu có tên là HFB-1 có nghĩa là "Hughes Flying Boat, 1st Design" (tàu bay Hughes thiết kế số 1),[8]). Ông ký hợp đồng mới với chính phủ nhưng chỉ giới hạn sản xuất 1 chiếc làm mẫu. Công việc được tiến hành chậm với kết cục là chiếc H-4 vẫn chưa hoàn thành cho đến sau khi chiến tranh đã kết thúc.

Năm 1947, Howard Hughes bị gọi đến trả lời chất vấn trước Ủy ban đặc trách điều tra chiến tranh của Thượng viện Hoa Kỳ về việc sử dụng tiền quỹ của chính phủ để chế tạo máy bay.

Tại một trong nhiều buổi điều trần tại Thượng viện ngày 6 tháng 8 năm 1947 Hughes nói:[11]

Chiếc Hercules là một công trình hoành tráng. Nó là một máy bay lớn nhất chưa từng chế tạo. Nó cao bằng 5 tầng nhà với một sải cánh dài hơn cả một sân bóng bầu dục. Lớn hơn cả một dãy phố. Tôi đã đổ hết mồ hôi trong chiếc máy bay. Tôi bỏ hết thanh danh của tôi vào trong nó và tôi đã nói nhiều lần rồi. Nếu nó thất bại, tôi có lẽ sẽ rời xứ sở này và không bao giờ trở lại đây. Và tôi nói là làm được.